Luật Đất đai 2024 đã quy định cụ thể sáu trường hợp mà Nhà nước sẽ thu hồi sổ đỏ đã cấp cho người sử dụng đất, nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quản lý đất đai. Sổ đỏ, hay còn gọi là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, là một giấy tờ pháp lý vô cùng quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất.
Theo khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai 2024, các trường hợp thu hồi sổ đỏ bao gồm: Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất đã ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp.
Thứ hai, trường hợp cấp đổi sổ đỏ. Khi cần cấp đổi sổ đỏ, người sử dụng đất sẽ phải nộp lại sổ đỏ cũ để được cấp mới. Thứ ba, khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới sổ đỏ. Việc này thường xảy ra khi có sự thay đổi về thông tin của người sử dụng đất hoặc khi thực hiện các giao dịch liên quan đến đất đai.
Thứ tư, sổ đỏ đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành thu hồi sổ đỏ đã cấp.
Đối với trường hợp sổ đỏ đã cấp không đúng quy định, có 4 tình huống có thể xảy ra. Thứ nhất, nếu Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai có bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, trong đó có kết luận về việc thu hồi sổ đỏ, thì việc thu hồi được thực hiện theo bản án, quyết định đó. Thứ hai, nếu cơ quan thanh tra có văn bản kết luận giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật, thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét và quyết định thu hồi nếu kết luận đó là đúng.
Thứ ba, nếu cơ quan có thẩm quyền cấp sổ đỏ phát hiện giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định, thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp. Cuối cùng, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất có quyền gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nếu phát hiện giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai.
Thứ năm, giấy chứng nhận đã cấp bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy. Thứ sáu, trường hợp đấu giá, giao quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án mà người phải thi hành án không nộp giấy chứng nhận đã cấp.
Như vậy, việc thu hồi sổ đỏ đã cấp cần được thực hiện một cách minh bạch và tuân thủ pháp luật, nhằm tránh những tranh chấp và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất. Ngoài ra, việc thu hồi sổ đỏ đã cấp không thuộc các trường hợp nêu trên chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã được thi hành hoặc văn bản kiến nghị của cơ quan thi hành án về việc thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật, trong đó có nội dung yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận đã cấp.
Đối với trường hợp thu hồi sổ đỏ mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không giao nộp, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định hủy giấy chứng nhận đã cấp.