Bản sắc văn hóa – Vanhoadoisong.com https://vanhoadoisong.com Trang thông tin văn hóa & đời sống Sun, 28 Sep 2025 05:20:50 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/vanhoadoisong/2025/08/vanhoadoisong.svg Bản sắc văn hóa – Vanhoadoisong.com https://vanhoadoisong.com 32 32 Phát triển thị trường mỹ thuật Huế: Cần đầu tư vào hạ tầng và không gian nghệ thuật https://vanhoadoisong.com/phat-trien-thi-truong-my-thuat-hue-can-dau-tu-vao-ha-tang-va-khong-gian-nghe-thuat/ Sun, 28 Sep 2025 05:20:47 +0000 https://vanhoadoisong.com/phat-trien-thi-truong-my-thuat-hue-can-dau-tu-vao-ha-tang-va-khong-gian-nghe-thuat/

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới vào năm 1986, đời sống mỹ thuật của Huế đã trải qua những bước chuyển biến đáng kể. Các tác phẩm nghệ thuật ra đời không chỉ tập trung vào những chủ đề cổ động truyền thống như ‘công – nông – binh’ hay những tác phẩm thể hiện vẻ đẹp của thiếu nữ, thiên nhiên, mà còn mở rộng sang những giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc và các vấn đề thời sự. Phong cách thể hiện, chất liệu và kỹ thuật cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn.

Triển lãm gốm thu hút sự quan tâm của những người yêu nghệ thuật
Triển lãm gốm thu hút sự quan tâm của những người yêu nghệ thuật

Thế hệ tiên phong của mỹ thuật Huế thời kỳ đổi mới gồm những tên tuổi lớn như họa sĩ Bửu Chỉ, Vĩnh Phối, Trương Bé, Công Huyền Tôn Nữ Tuyết Mai, và điêu khắc gia Mai Văn Quýnh. Những nghệ sĩ này đã mang mỹ thuật Việt Nam, cụ thể là mỹ thuật Cố đô Huế, ra thế giới bằng cách thể hiện sự tự học thành tài hoặc được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Sự xuất hiện của họ đã tạo ra một làn gió mới trong thế giới nghệ thuật Huế, góp phần làm giàu thêm nền văn hóa nghệ thuật của đất nước.

Thế hệ thứ hai của họa sĩ Huế thời kỳ đổi mới, bao gồm Hà Văn Chước, Phan Thanh Bình, Đặng Mậu Tựu, Đặng Mậu Triết, Nguyễn Thiện Đức…, đã tạo ra những thay đổi trong cách nhìn và cách biểu hiện nghệ thuật. Họ tìm kiếm những kỹ thuật và chất liệu mới để làm mới nghệ thuật, đồng thời giữ được hồn cốt nghệ thuật và mang đậm tính triết lý, đời sống nhân sinh. Các nghệ sĩ này đã tiếp tục phát huy truyền thống của mỹ thuật Huế, đồng thời tạo ra những dấu ấn riêng của mình.

Thế nhưng, thị trường mỹ thuật tại Huế vẫn còn trầm lắng so với các đô thị lớn khác như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Các yếu tố như tính cách Huế, thời tiết, tài chính của người dân và chính sách của thành phố đã ảnh hưởng đến tâm lý sưu tập và kinh doanh các loại hình nghệ thuật chất lượng cao. Thị trường mỹ thuật tại Huế đang đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi sự quan tâm và hỗ trợ từ các cấp chính quyền và doanh nghiệp.

Để thúc đẩy thị trường mỹ thuật Huế, cần tập trung vào việc phát triển hạ tầng và không gian nghệ thuật, nâng cao tính thương mại và tiếp cận thị trường, khuyến khích nghệ sĩ phát triển sản phẩm mỹ thuật ứng dụng và tổ chức các sự kiện nghệ thuật thường niên. Một số giải pháp cụ thể có thể được xem xét, chẳng hạn như xây dựng các không gian trưng bày và bán tác phẩm nghệ thuật, tổ chức các hội chợ và triển lãm mỹ thuật quốc tế, cũng như hỗ trợ các nghệ sĩ trong việc quảng bá và tiêu thụ sản phẩm của mình.

Với những bất cập và hạn chế hiện có, mỹ thuật Huế cần những cú hích mạnh mẽ để giúp nghệ sĩ sống được bằng nghề và đưa mỹ thuật Huế ra thế giới. Điều này đòi hỏi sự chung tay của chính quyền, doanh nghiệp và cả người dân trong việc xây dựng và phát triển nền mỹ thuật của Cố đô Huế. Từ đó, mỹ thuật Huế mới có thể phát triển một cách bền vững và trở thành một phần quan trọng của văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

]]>
Giữ tiếng Việt qua 4 thế hệ: Niềm tự hào của gia đình Việt ở Lào https://vanhoadoisong.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-niem-tu-hao-cua-gia-dinh-viet-o-lao/ Wed, 24 Sep 2025 00:19:30 +0000 https://vanhoadoisong.com/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-niem-tu-hao-cua-gia-dinh-viet-o-lao/

Ở trung tâm thủ đô Vientiane, Lào, một gia đình nhỏ vẫn âm thầm bảo tồn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một dòng chảy văn hóa không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, một người phụ nữ gốc Việt 97 tuổi, với những nỗ lực không ngừng nghỉ để giữ gìn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt tại xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, cùng gia đình định cư tại Lào và xây dựng cuộc sống mới. Dù sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một dòng chảy không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

]]>
Phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Cần chiến lược đồng bộ https://vanhoadoisong.com/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/ Sat, 06 Sep 2025 12:20:58 +0000 https://vanhoadoisong.com/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/

Sau quá trình hợp nhất, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện bao gồm 5 tỉnh, thành phố là Cà Mau, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Với thế mạnh về tài nguyên miệt vườn, sông nước, biển, đảo, hệ thống danh lam, thắng cảnh, di sản văn hóa phong phú và bản sắc văn hóa độc đáo, du lịch vùng ĐBSCL được kỳ vọng sẽ có bước chuyển mình mạnh mẽ.

Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.
Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.

Quá trình hợp nhất không gian du lịch ở mỗi tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã được mở rộng. Các kết nối liên vùng, nội tỉnh trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn, giúp việc xây dựng tour, tuyến thuận lợi hơn, mang đến cho du khách hình ảnh ĐBSCL mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn. Sự phân vùng không chỉ giúp tránh chồng lấn sản phẩm mà còn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch chuyên sâu và bài bản hơn để thu hút du khách.

Tuy nhiên, dù các tỉnh, thành phố ĐBSCL đã chú trọng công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch, vẫn còn thực trạng ‘mạnh ai nấy làm’ dẫn đến rời rạc, thiếu tính kết nối. Do đó, sản phẩm du lịch vùng này có sự trùng lắp, thiếu chiều sâu và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong xây dựng các tour liên tỉnh.

Các chuyên gia du lịch khẳng định, hợp nhất tỉnh là dịp để tái tổ chức ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, để phát triển du lịch ĐBSCL bền vững cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược như đầu tư phát triển hạ tầng du lịch hiện đại, đồng bộ từ việc cải thiện hệ thống giao thông liên vùng; ứng dụng công nghệ số trong quản lý điểm đến, chỉ dẫn thông minh và quảng bá du lịch; định vị và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch quy mô vùng…

Đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực qua các lớp đào tạo, tập huấn nhân lực du lịch theo chuẩn quốc tế, chú trọng ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ và văn hóa ứng xử. Ngoài ra, cần xây dựng và tăng cường cơ chế phối hợp liên kết giữa các tỉnh, thành phố thông qua các hội đồng liên kết và hệ thống thông tin chung để tạo thống nhất trong phát triển sản phẩm du lịch.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiệp khẳng định, du lịch ĐBSCL cần có ‘nhạc trưởng’ điều phối để sản phẩm tránh trùng lắp và công tác liên kết du lịch phát huy sức mạnh tổng lực. Công tác liên kết phát triển du lịch ngoài chính quyền cần hướng đến liên kết thị trường, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, quảng bá hình ảnh, thương hiệu du lịch theo hướng phát triển các chuỗi giá trị, sản phẩm du lịch đặc thù…, từ đó có phân công rõ trong liên kết, phát huy lợi thế, khắc phục hạn chế, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững.

Giám đốc Sở Du lịch Bùi Quốc Thái cho biết, việc thay đổi địa giới hành chính mở ra cơ hội tái cấu trúc mang tính chiến lược, các địa phương có thể dễ dàng phối hợp hơn trong quản lý tài nguyên du lịch, kết nối hạ tầng và tổ chức tour, tuyến đồng bộ, từ đó tạo ra chuỗi giá trị du lịch liên hoàn, hấp dẫn và bền vững. https://www.tcdulichtphcm.vn/du-lich-can-tho

Hiện nay, các địa phương ở ĐBSCL đang tích cực phối hợp để xây dựng sản phẩm du lịch mới, như tour du lịch https://www.tcdulichtphcm.vn/khu-di-tich-lich-su-dung-phi-nhiet-dien sinh thái, văn hóa, nhằm thu hút du khách và phát triển du lịch bền vững.

]]>
Phương Mỹ Chi tự hào khi mang âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới https://vanhoadoisong.com/phuong-my-chi-tu-hao-khi-mang-am-nhac-dan-toc-viet-nam-ra-the-gioi/ Mon, 01 Sep 2025 01:49:42 +0000 https://vanhoadoisong.com/phuong-my-chi-tu-hao-khi-mang-am-nhac-dan-toc-viet-nam-ra-the-gioi/

Cuộc thi âm nhạc khu vực Sing! Asia – Giọng hát châu Á đã chính thức kết thúc sau gần hai tháng diễn ra với sự tham gia của 32 ca sĩ trẻ đến từ 9 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á. Sau hành trình đầy nỗ lực và cạnh tranh gay gắt, đại diện Việt Nam – Phương Mỹ Chi đã xuất sắc đoạt hạng ba chung cuộc.

Phương Mỹ Chi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng giới chuyên môn và khán giả không chỉ bởi sự đầu tư chỉn chu cho phần trình diễn của mình, mà còn bởi giọng hát nội lực và giàu cảm xúc. Cô đã thể hiện khả năng ca hát xuất sắc và phong cách biểu diễn tự tin, giúp nâng cao uy tín của nền âm nhạc Việt Nam trên trường quốc tế.

Điều đáng nói hơn, Phương Mỹ Chi đã đưa những giai điệu quen thuộc của quê hương vươn lên tầm quốc tế, góp phần quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc đến với bạn bè khắp nơi trên thế giới. Những phần trình diễn của cô không chỉ thể hiện tài năng cá nhân mà còn là cầu nối giúp lan tỏa văn hóa Việt Nam ra quốc tế.

Thành tích này không chỉ là niềm tự hào của Việt Nam mà còn là minh chứng cho sức hút của âm nhạc Việt Nam trên thị trường quốc tế. Việc Phương Mỹ Chi đạt được thành tích cao trong một cuộc thi uy tín và có sự tham gia của nhiều đại diện đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á cho thấy âm nhạc Việt Nam đang ngày càng phát triển và có chỗ đứng trên bản đồ âm nhạc thế giới.

Không chỉ dừng lại ở đó, sự thành công của Phương Mỹ Chi cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bạn trẻ Việt Nam yêu âm nhạc và muốn theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực này. Cô đã chứng minh rằng với sự nỗ lực, đam mê và không ngừng phấn đấu, không có giới hạn nào cho việc chinh phục đỉnh cao âm nhạc.

Ngoài ra, thành tích của Phương Mỹ Chi cũng thể hiện sự quan tâm và ủng hộ của công chúng và giới chuyên môn dành cho cô. Việc được ủng hộ và yêu mến không chỉ bởi khán giả Việt Nam mà còn bởi những người yêu âm nhạc trên toàn thế giới là một điều đáng tự hào.

Cuối cùng, việc Phương Mỹ Chi xuất sắc đoạt hạng ba trong cuộc thi Sing! Asia – Giọng hát châu Á là một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của cô. Hy vọng rằng thành tích này sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho cô trong tương lai, giúp cô có thể tiếp tục thể hiện tài năng và lan tỏa âm nhạc Việt Nam đến với thế giới.

]]>
Cao đẳng Đà Nẵng đổi mới sau sáp nhập: Phát triển đa ngành, hiện đại và giàu bản sắc https://vanhoadoisong.com/cao-dang-da-nang-doi-moi-sau-sap-nhap-phat-trien-da-nganh-hien-dai-va-giau-ban-sac/ Sun, 24 Aug 2025 09:52:58 +0000 https://vanhoadoisong.com/cao-dang-da-nang-doi-moi-sau-sap-nhap-phat-trien-da-nganh-hien-dai-va-giau-ban-sac/

Trường Cao đẳng Đà Nẵng là một cơ sở đào tạo đa ngành, hiện đại và giàu bản sắc sau khi trải qua quá trình sáp nhập. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển mình chiến lược để trở thành một trường cao đẳng đa lĩnh vực, với sức mạnh tổng hợp từ kỹ thuật công nghệ đến văn hóa nghệ thuật.

Giờ thực hành ngành kỹ thuật.
Giờ thực hành ngành kỹ thuật.

Ông Hồ Viết Hà, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng, đã chia sẻ về những thách thức và cơ hội mà trường đang đối mặt trong quá trình đổi mới, kết nối và khẳng định vị thế của mình. Một trong những thách thức lớn nhất sau sáp nhập là tạo sự thống nhất và đoàn kết trong nội bộ. Để giải quyết vấn đề này, nhà trường đã xác định ổn định tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt.

Sinh viên trong tiết học thực hành.
Sinh viên trong tiết học thực hành.

Nhà trường đã tổ chức các buổi họp giao ban, hội nghị, trao đổi nội bộ thường xuyên để lắng nghe, chia sẻ và giải đáp kịp thời những vướng mắc của cán bộ, giảng viên và nhân viên. Việc bố trí cán bộ quản lý ở các khoa, phòng, trung tâm cũng được thực hiện theo đề án sáp nhập được UBND TP Đà Nẵng phê duyệt, dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với năng lực, chuyên môn của từng vị trí.

Sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật trong kỳ thi tốt nghiệp.
Sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật trong kỳ thi tốt nghiệp.

Trường Cao đẳng Đà Nẵng cũng chú trọng đến yếu tố hài hòa, không để xảy ra tình trạng bên này “áp” bên kia, mà thay vào đó là phối hợp, cùng xây dựng. Mỗi đơn vị, phòng ban sau sáp nhập có đại diện từ cả hai trường trước đây, giúp tăng cường tính kết nối và tạo ra môi trường làm việc ổn định, tích cực.

Ông Hồ Viết Hà - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng.
Ông Hồ Viết Hà – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng.

Trong thời gian tới, nhà trường sẽ đẩy mạnh các hoạt động chung như hội thao, văn nghệ, tập huấn chuyên môn liên ngành… để tăng tính kết nối giữa các đơn vị, từ đó tạo sự gắn bó, chia sẻ và dần hình thành văn hóa chung. Mục tiêu cuối cùng là tạo ra môi trường học tập, làm việc ổn định, tích cực, có lợi cho học sinh, sinh viên.

Sau sáp nhập, Trường Cao đẳng Đà Nẵng mang trong mình hai thế mạnh: Kỹ thuật công nghệ và nghệ thuật sáng tạo. Nhà trường định hướng ra sao để tạo ra thế hệ vừa giỏi nghề, vừa giàu cảm xúc và nhân văn? Bước vào năm học mới, với mô hình trường cao đẳng đa ngành, đa lĩnh vực, nhà trường đặt mục tiêu xây dựng môi trường giáo dục toàn diện, lấy sinh viên làm trung tâm và hướng tới phát triển hài hòa các yếu tố đức – trí – thể – mỹ.

Về đạo đức, nhà trường chú trọng giáo dục tư tưởng, lối sống, tác phong công nghiệp và ý thức nghề nghiệp cho sinh viên. Về trí tuệ, trường tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn kết chặt chẽ với thực tiễn, nâng cao chất lượng dạy học, tăng cường ứng dụng công nghệ, kỹ thuật vào giảng dạy.

Về thể chất, nhà trường đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao, phong trào rèn luyện sức khỏe, tổ chức giải thi đấu nội bộ, giao lưu giữa các khoa, bộ môn, tạo điều kiện cho sinh viên tăng cường thể lực, xây dựng lối sống lành mạnh. Về thẩm mỹ, với tiền thân từ Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật, nhà trường có thế mạnh trong việc tổ chức hoạt động văn hóa – nghệ thuật.

Nhà trường sẽ phát huy truyền thống này bằng cách đưa các hoạt động biểu diễn, mỹ thuật, sáng tác vào đời sống học đường; giúp sinh viên có tinh thần phong phú, phát triển cảm xúc và gu thẩm mỹ trong học tập lẫn cuộc sống. Với đội ngũ giảng viên chuyên sâu về văn hóa – nghệ thuật, nhà trường có định hướng gì để hỗ trợ các trường phổ thông trên địa bàn, nhất là trong bối cảnh thiếu giáo viên mỹ thuật?

Nhà trường xác định đây là nhiệm vụ phù hợp với thế mạnh và trách nhiệm xã hội. Trước mắt, nhà trường tích cực đưa nội dung giáo dục âm nhạc, kỹ năng biểu diễn, thẩm mỹ nghệ thuật vào hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ, sinh hoạt chuyên đề trong trường. Đồng thời, nhà trường khuyến khích sinh viên các ngành khác (ngoài nghệ thuật) tiếp cận, trải nghiệm môn nghệ thuật như nhạc cụ, hát, múa, vẽ… để phát triển năng khiếu cá nhân và cảm thụ nghệ thuật như một phần trong hành trang phát triển toàn diện.

Nhà trường cũng mong rằng, với sự đồng hành của ngành Giáo dục, Văn hóa và chính quyền địa phương, Trường Cao đẳng Đà Nẵng có thể trở thành hạt nhân hỗ trợ lan tỏa tinh thần yêu nghệ thuật, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh từ sớm. Về hỗ trợ bên ngoài, lâu nay, nhà trường phối hợp với các trường THPT, THCS trên địa bàn thành phố để đưa giáo dục STEM vào giảng dạy và hướng nghiệp cho học sinh.

Khi được đào tạo thêm lĩnh vực văn hóa nghệ thuật cũng là lợi thế, nhà trường sẽ sẵn sàng chuyển sang mô hình STEAM. Qua đó, học sinh học theo cách tiếp cận thực tế, ứng dụng các kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề trong cuộc sống.

]]>
Cần Thơ: Người đàn ông Khmer chế tác nhạc cụ truyền thống推廣 văn hóa dân tộc https://vanhoadoisong.com/can-tho-nguoi-dan-ong-khmer-che-tac-nhac-cu-truyen-thong%e6%8e%a8%e5%bb%a3-van-hoa-dan-toc/ Mon, 04 Aug 2025 08:49:44 +0000 https://vanhoadoisong.com/can-tho-nguoi-dan-ong-khmer-che-tac-nhac-cu-truyen-thong%e6%8e%a8%e5%bb%a3-van-hoa-dan-toc/

Ở xã Ngọc Tố, thành phố Cần Thơ, anh Lý Minh Tâm, 27 tuổi, người dân tộc Khmer, đã và đang âm thầm gìn giữ âm sắc truyền thống từ nhạc ngũ âm trong đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào Khmer. Với tình yêu sâu sắc đối với âm nhạc truyền thống, anh Tâm đã trở thành một phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Khmer.

Anh Lý Minh Tâm biểu diễn trên nhạc cụ do mình tự làm
Anh Lý Minh Tâm biểu diễn trên nhạc cụ do mình tự làm

Anh Tâm sinh ra trong một gia đình yêu nghệ thuật truyền thống Khmer, và từ nhỏ đã được nuôi dưỡng bằng những âm thanh ngũ âm vang lên từ ngôi chùa trong phum sóc. Những âm thanh ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong anh, và anh đã học theo và ao ước được chơi một lần. Năm lên 11 tuổi, anh đã được tiếp xúc với dàn nhạc ngũ âm, loại nhạc cụ truyền thống Khmer được hợp thành bởi 5 bộ nhạc, được làm từ 5 loại chất liệu khác nhau tạo nên 5 âm sắc riêng biệt gồm: Bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc, bộ hơi và bộ da.

Với tình yêu sâu sắc và sự kiên trì, chỉ trong một thời gian ngắn, anh Tâm đã chơi thành thạo và được chọn vào đội nhạc ngũ âm của chùa Khmer tại địa phương. Anh đã có cơ hội được theo đoàn đi biểu diễn khắp nơi mỗi khi có lễ hội, và cảm giác được hòa mình vào những bản nhạc dân gian từ các nhạc cụ ngũ âm trong lễ hội truyền thống Khmer là điều khiến anh thấy mình là một phần của văn hóa dân tộc mình.

Nhạc cụ Rôneat Thung do anh Tâm tự làm.
Nhạc cụ Rôneat Thung do anh Tâm tự làm.

Không chỉ là người biểu diễn, khoảng 4 năm nay, anh Tâm còn trở thành người gieo mầm âm nhạc khi trực tiếp dạy nhạc ngũ âm cho các em nhỏ tại các chùa Khmer trong địa phương. Những lớp học diễn ra đều đặn vào các dịp nghỉ hè, buổi tối hay dịp cuối tuần, thu hút các em nhỏ, thanh thiếu niên Khmer yêu âm nhạc truyền thống tham gia.

Anh Tâm không chỉ dừng lại ở việc truyền dạy, mà còn nghiên cứu, tìm tòi về quy trình làm ra nhạc cụ ngũ âm. Từ việc chọn loại gỗ, tre phù hợp, xử lý mặt trống đến cân chỉnh âm thanh, tất cả đều được anh tỉ mỉ. Bằng sự tâm huyết và tình yêu nhạc cụ truyền thống, anh Tâm đã tự học tập, tự tìm hiểu và tự chế tác thành công 4 loại nhạc cụ trong dàn ngũ âm, gồm: Rôneat Ek, Rôneat Thung, Rôneat Đek và trống.

Những đóng góp của anh Lý Minh Tâm trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Khmer đã giúp giữ gìn và lan tỏa bền vững trong cộng đồng dân tộc Khmer. Giữa nhịp sống hiện đại ngày càng hối hả, việc một người trẻ dành trọn tâm huyết cho nhạc cụ truyền thống như anh Lý Minh Tâm đã giúp bản sắc Khmer không chỉ được gìn giữ, mà còn tiếp tục được lan tỏa.

]]>
Tính phổ quát và tinh độc đáo văn hóa https://vanhoadoisong.com/tinh-pho-quat-va-tinh-doc-dao-van-hoa/ Mon, 04 Aug 2025 08:04:21 +0000 https://vanhoadoisong.com/tinh-pho-quat-va-tinh-doc-dao-van-hoa/

Tính phổ quát và tính đặc thù – mối quan hệ biện chứng trong văn chương luôn là một chủ đề thú vị và phức tạp trong lĩnh vực văn học. Hai yếu tố này luôn song hành và không thể tách rời trong quá trình sáng tác và đánh giá văn chương. Việc tìm kiếm và khám phá những giá trị phổ quát trong văn chương là một nhu cầu thiết yếu, giúp người đọc nhận ra sự tương đồng và kết nối giữa các cá nhân và cộng đồng.

Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào tính phổ quát mà bỏ qua tính đặc thù, giá trị của văn chương sẽ trở nên chung chung và thiếu sức sống. Văn chương sẽ không thể chạm đến trái tim của người đọc nếu không có sự kết nối với những trải nghiệm và cảm xúc riêng biệt của từng cá nhân và cộng đồng. Ngược lại, nếu chỉ chăm chú vào tính đặc thù, văn chương sẽ trở nên khép kín và tự trị, khó có thể kết nối với cộng đồng nhân loại và chia sẻ những giá trị phổ quát.

Để đạt được sự cân bằng giữa tính phổ quát và tính đặc thù, các nhà văn cần phải tìm được cách thể hiện cái phổ quát thông qua cái riêng và cái đặc thù của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ khi có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này, văn chương mới có thể đạt đến giá trị chân thực và sâu sắc. Các nhà văn như Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Bình Phương, và Trương Đăng Dung đã thể hiện một cách xuất sắc mối quan hệ này trong tác phẩm của mình.

Trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, cụ Mết đã nói lên chân lý của việc cần phải tiến hành bạo lực cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là một sự lựa chọn dựa trên điều kiện cụ thể của dân tộc, nhằm bảo vệ hòa bình và tự do. Còn trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, cái ác được xem xét trong bối cảnh cụ thể của cuộc chiến tranh, của những xung đột văn hóa – xã hội Việt Nam. Qua đó, tác giả thể hiện một cách sâu sắc và đa chiều về bản chất của con người.

Tương tự, trong thơ Trương Đăng Dung, người đọc nhận ra nhiều phạm trù phổ quát gắn với nhân loại nói chung. Nhưng, nỗi bất an của tồn tại người trong nhiều tác phẩm của ông phải được kích hoạt từ chính cuộc đời, thân phận một người Việt Nam, sinh ra ở một vùng trũng về văn minh, trong một thời đại đầy khắc nghiệt của chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… Từ “sự tồn sinh cá nhân” ấy, qua những ưu tư nghiêm khắc, cái phổ quát mới có da thịt và linh hồn để không trở nên mơ hồ, rỗng nghĩa.

Như vậy, tính phổ quát và tính đặc thù là hai mặt không thể thiếu trong văn chương. Khi văn chương biết kết hợp và hài hòa hai yếu tố này, nó sẽ tạo ra những tác phẩm có giá trị sâu sắc, có thể chạm đến trái tim của người đọc và để lại dấu ấn lâu dài trong lòng họ.

]]>