Dân tộc thiểu số – Vanhoadoisong.com https://vanhoadoisong.com Trang thông tin văn hóa & đời sống Fri, 12 Sep 2025 07:04:26 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/vanhoadoisong/2025/08/vanhoadoisong.svg Dân tộc thiểu số – Vanhoadoisong.com https://vanhoadoisong.com 32 32 Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng thiểu số Nam Bộ https://vanhoadoisong.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-vung-thieu-so-nam-bo/ Fri, 12 Sep 2025 07:04:24 +0000 https://vanhoadoisong.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-vung-thieu-so-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả. Chị Út Tịch đã sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người dân Việt Nam.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ, từng bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm, có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích. Quyết định này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của chị Út Tịch, giúp chị tìm thấy mục đích sống và lý tưởng cách mạng.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Chị Út Tịch đã trở thành một biểu tượng của sự kiên trung, bất khuất và lòng yêu nước sâu sắc.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị. Sự hy sinh của chị Út Tịch đã để lại nhiều thương tiếc và ấn tượng sâu đậm trong lòng người dân Việt Nam.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân. Chị Út Tịch đã trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử và văn hóa của người dân Việt Nam.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình. Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân.

Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên. Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’. Những nỗ lực này sẽ giúp phụ nữ vùng căn cứ có thể phát triển và vươn lên, tiếp nối bước chân của chị Út Tịch và góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

https://vnexpress.net/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-vung-dan-toc-thieu-so-nam-bo-3576357.html

]]>
Gần 7.000 bà mẹ dân tộc thiểu số được hỗ trợ sinh đẻ an toàn https://vanhoadoisong.com/gan-7-000-ba-me-dan-toc-thieu-so-duoc-ho-tro-sinh-de-an-toan/ Sat, 23 Aug 2025 03:52:00 +0000 https://vanhoadoisong.com/gan-7-000-ba-me-dan-toc-thieu-so-duoc-ho-tro-sinh-de-an-toan/

Một dự án hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em đang được triển khai mạnh mẽ tại 10 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Dự án này là một phần của Dự án 8 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Mục tiêu của dự án là giảm tỷ lệ sinh con tại nhà, đặc biệt là ở những vùng có đông người DTTS và có tỷ lệ sinh con tại nhà cao hơn mức trung bình của cả nước. Theo kết quả Điều tra thực trạng kinh tế xã hội 53 DTTS Việt Nam năm 2019 của Tổng cục Thống kê, các tỉnh gồm Gia Lai, Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên là những địa bàn có tỷ lệ sinh con tại nhà cao.

Chị em phụ nữ DTTS ở Hà Giang được tập huấn kiến thức làm mẹ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em
Chị em phụ nữ DTTS ở Hà Giang được tập huấn kiến thức làm mẹ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em

Để đạt được mục tiêu này, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã đề xuất bổ sung đầy đủ gói chính sách hỗ trợ chế độ cho bà mẹ đi khám thai trong Thông tư 55/2023/TT-BTC. Đồng thời, hội cũng đề xuất hỗ trợ gói vật tư chăm sóc khi sinh đối với trường hợp bà mẹ sinh từ 2 bé trở lên.

Để triển khai dự án, Hội LHPN các cấp đã phối hợp với ngành Y tế cùng cấp triển khai 4 gói hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ chế độ cho bà mẹ đi khám thai, hỗ trợ vật tư chăm sóc khi sinh, hỗ trợ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em. Tính đến nay, các tỉnh đã chi trả chế độ hỗ trợ cho gần 7.000 bà mẹ với tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 9 tỷ đồng.

Đáng chú ý, 5 trong 10 tỉnh đã đạt và vượt chỉ tiêu 80% phụ nữ thuộc nhóm dân tộc có tỷ lệ sinh con tại nhà cao được tuyên truyền, vận động, tư vấn kiến thức và tiếp cận với dịch vụ sinh đẻ an toàn. Hội LHPN Việt Nam cũng đã tổ chức 8 chuỗi sự kiện truyền thông vận động phụ nữ sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em tại 8 tỉnh có tỷ lệ sinh con tại nhà cao.

Dự án này không chỉ giúp giảm tỷ lệ sinh con tại nhà mà còn nâng cao kiến thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ DTTS, góp phần cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng khó khăn. Thông tin về dự án và các hoạt động hỗ trợ có thể được tìm thấy tại https://www.ilo.org và các nguồn thông tin khác về phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số Lào Cai đổi đời nhờ măng: Hành trình thoát nghèo với kỹ thuật tiên tiến https://vanhoadoisong.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai-doi-doi-nho-mang-hanh-trinh-thoat-ngheo-voi-ky-thuat-tien-tien/ Mon, 04 Aug 2025 07:19:37 +0000 https://vanhoadoisong.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai-doi-doi-nho-mang-hanh-trinh-thoat-ngheo-voi-ky-thuat-tien-tien/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé. Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng. Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm. Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Xã vùng cao Mai Châu đổi mới với đội ngũ cán bộ đáp ứng thách thức phát triển https://vanhoadoisong.com/xa-vung-cao-mai-chau-doi-moi-voi-doi-ngu-can-bo-dap-ung-thach-thuc-phat-trien/ Sun, 27 Jul 2025 08:24:25 +0000 https://vanhoadoisong.com/xa-vung-cao-mai-chau-doi-moi-voi-doi-ngu-can-bo-dap-ung-thach-thuc-phat-trien/

Sau gần ba tuần chính thức vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, xã vùng cao Mai Châu, tỉnh Phú Thọ, đang từng bước khẳng định tinh thần đổi mới, chủ động thích ứng và quyết tâm xây dựng bộ máy gần dân, phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn.

Khu vực xã Thành Sơn (cũ), xã Mai Châu hiện nay được định hướng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Khu vực xã Thành Sơn (cũ), xã Mai Châu hiện nay được định hướng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.

Được hình thành trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị trấn Mai Châu, các xã Nà Phòn, Thành Sơn, Tòng Đậu và 5 xóm thuộc xã Đồng Tân, xã Mai Châu mang đến một mô hình mới, bộ máy mới. Với đặc thù 84% dân số là người dân tộc thiểu số, địa hình đồi núi, chia cắt, yêu cầu về vận hành bộ máy thông suốt, gần dân, hiệu quả được đặt ra cao.

Đảng bộ xã có 73 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc với hơn 2.000 đảng viên. Đảng ủy xã kịp thời cập nhật các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, tỉnh để triển khai thực hiện tại địa phương. Đặc biệt, chú trọng công tác quán triệt tư tưởng chính trị để đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy và người đứng đầu nhận thức đầy đủ về yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong bối cảnh vận hành mô hình mới, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được đặc biệt quan tâm. Bộ máy HĐND, UBND xã đã được công bố tại kỳ họp HĐND xã lần thứ nhất. Đảng uỷ xã cũng đã công bố quyết định thành lập các tổ chức đảng trực thuộc và nhân sự chủ chốt.

Tinh thần phục vụ Nhân dân được thể hiện rõ tại Trung tâm Phục vụ hành chính công xã. Từ ngày 1-18/7, Trung tâm đã tiếp nhận và giải quyết 227 hồ sơ. Để thuận tiện cho công dân, xã đã bố trí 2 cán bộ tiếp nhận hồ sơ tại trụ sở xã cũ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện còn gặp không ít khó khăn, điển hình là trong 226 hồ sơ TTHC đã giải quyết có 8 hồ sơ quá hạn. Hệ thống thông tin một cửa điện tử đường truyền chậm, xử lý được một bước quy trình phải đợi rất lâu, cán bộ không kịp tích chuyển đúng thời hạn.

Trước những khó khăn đó, xã đề nghị được đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động của Trung tâm và quy chuẩn các hệ thống hướng dẫn biển, bảng, mô hình hoạt động. Bộ Tài chính sớm cung cấp tài khoản đăng ký kinh doanh cho cán bộ xử lý hồ sơ cấp xã để sớm giải quyết cho công dân.

Đảng bộ xã đang tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2025-2030, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới và xác định rõ định hướng phát triển trong 5 năm tới. Định hướng chính của xã là tập trung phát triển du lịch, dịch vụ và nông nghiệp chất lượng cao.

Bộ máy mới, mô hình mới, trước mắt không tránh khỏi những vướng mắc, nhưng với tinh thần chủ động, đổi mới, thích ứng, Đảng bộ xã Mai Châu quyết tâm giải quyết mọi khó khăn để ổn định và hoà nhịp cùng cả tỉnh, cả nước trong kỷ nguyên mới.

]]>